Skip to main content

Vấn đề tích lũy khoáng xương – Nhân tố quyết định chiều cao ở tuổi trưởng thành

Sự phát triển của khối xương trong những năm đang phát triển là một yếu tố quyết định quan trọng của chiều cao cơ thể và nguy cơ các bệnh về xương sau này. Chế độ ăn uống đầy đủ và luyện tập hợp lý trong giai đoạn tăng trưởng là yếu tố rất quan trọng giúp kích thước xương và khối lượng xương đạt đến điểm tối đa trong khả năng của cơ thể. Nghĩa là, trong giai đoạn từ 9 tuổi đến 18 tuổi, trẻ em phải liên tục tích lũy đủ lượng khoáng xương cần thiết cho cơ thể để đảm bảo hệ xương phát triển đúng tiến độ và đúng chất lượng trong suốt thời kỳ này.

Nghiên cứu Saskatchewan về tích lũy khoáng xương

Nghiên cứu Saskatchewan (một nghiên cứu của Trường đại học Saskatchewan, Canada) là một nghiên cứu tập trung vào yếu tố tích lũy khoáng xương ở trẻ em ở tuổi tiền dậy thì và dậy thì (tuổi thanh thiếu niên). Nghiên cứu đã thực hiện theo suốt thời gian tăng trưởng của trẻ em thuộc Tây Á, Trung Á, và Châu Âu từ khi các em 9 tuổi đến 18 tuổi. Số liệu được đo tại mỗi thời điểm chụp cắt lớp xương tại bệnh viện và thu thập trong khoảng thời gian 6 năm.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Khoảng thời gian cơ thể thực hiện chức năng tích lũy khoáng xương nhiều nhất là từ 9 đến 18 tuổi (10 năm). Thời điểm đạt mức cao nhất lương khoáng xương là 13.5 ± 1.0 tuổi ở trẻ em nam và 11.8 ± 0.9 tuổi ở trẻ em nữ (xem Bảng 1). Xương tiếp tục tăng trưởng tối đa là 6 tháng sau khi đạt đỉnh cao nhất của khối lượng và kích thước xương trong tiềm năng của cơ thể.
 
Trong hai năm tăng trưởng mạnh nhất của hệ xương, thanh thiếu niên tích tụ được trên 25% khối lượng xương của người trưởng thành. Dữ liệu của Nghiên cứu Saskatchewan cũng đã cung cấp các chỉ số sinh học về nhu cầu canxi  cũng như tiết lộ công thức dinh dưỡng để đạt được khối lượng xương tối ta trong giai đoạn 2 năm tăng trưởng cao nhất của tuổi thanh thiếu niên (xem Bảng 2). Trong đó nói rõ, hai yếu tố quan trọng nhất giúp khối lượng xương và kích thước xương tăng trưởng được ở mức cao nhất là chế độ dinh dưỡng và lối sống (luyện tập và chế độ nghỉ ngơi):
+ Dinh dưỡng cung cấp vật chất cho việc xây dựng khối xương.
+ Luyện tập và ngủ, nghỉ hợp lý cung cấp cơ chế kỹ thuật cho sự phát triển của hệ xương. 
Ngoài nghiên cứu Saskatchewan được nêu ở trên, vấn đề 25% khối lượng xương của người trưởng thành được hình thành trong hai (02) năm phát triển mạnh nhất của tuổi dậy thì cũng được chứng mình bởi hai tiến sỹ Dược của Trường đại học Minnesota Mỹ và Đại học Khoa học Dinh Dưỡng Deakin Úc (kết quả nghiên cứu được minh họa trên biểu đồ dưới đây).
Theo Bảng 2 (ở dưới), kết quả nghiên cứu Saskatchewan đã chỉ ra được một bức tranh chính xác hơn về khả năng tích lũy khoáng xương ở trẻ em trong độ tuổi thanh thiếu niên. Trong đó, lương canxi cần cho bé gái sẽ là 1466mg mỗi ngày và 1700mg mỗi ngày cho bé trai. Nên nhớ rõ rằng, nhu cầu canxi cho thanh thiếu niên trong 02 năm cao điểm này là nhiều hơn so với thời gian chuẩn bị trước đó. Và một điểm quan trọng cần hiểu rõ là: trên đường canxi được hấp thu vào máu thì một lượng không hề nhỏ đã kịp thời bị đẩy ra ngoài theo các con đường bài tiết như qua đường nước tiểu, mồ hôi, phân,… Vì vậy, lượng canxi cần bổ sung hàng ngày cần được tính toán bao gồm cả những lượng bị mất đi này để đảm bảo đủ lượng canxi được hấp thu vào máu (xem chi tiết lượng mất đi tại Bảng 2).



Kết luận: Để trẻ em đạt được chiều cao tối ưu ở tuổi trưởng thành và hạn chế tối đa các bệnh lý về xương sau này, tích lũy khoáng xương cần phải được chú ý trong một thời gian khoảng 9 đến 10 năm, ngay từ khi trẻ còn học ở trường tiểu học (8-9 tuổi) và tăng mạnh vào giai đoạn thay đổi sinh lý để bước sang tuổi trưởng thành (giai đoạn dậy thì).

Comments

Popular posts from this blog

CHO NHỮNG NGƯỜI MẮC VIÊM LOÉT DẠ DÀY, TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN

Con tôi còn rất trẻ nhưng không may bị trào ngược dạ dày, không ăn được, ăn vào là muốn nôn ra. Vì vậy, tôi phải tìm tòi các dạng thuốc đông y, thuốc nam, thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ tự nhiên, ít ảnh hưởng đến những chức năng khác trong cơ thể để chữa cho con. Trong quá trình đọc tài liệu, tìm tòi thông tin, tôi đọc được những bức viết này, tôi đã chụp lại và xin được chia sẻ với bạn đọc để tham khảo.

Review sản phẩm Kukumin IP - cho người trào ngược dạ dày, viêm loét dạ dày

Mình lại tiếp tục đăng lên nhưng feedback của người sử dụng Kukumin IP cho nhưng ai còn mắc chứng trào ngược dạ dày thực quản, viêm loét dạ dày tham khảo. Có thể nói không phải có nhiều sản phẩm hiện nay trên thị trường được một tỷ lệ hầu hết người sử dụng như sản phẩm này. Bạn đọc vui lòng xem những bản viết tay của khách hàng được chụp lại ở dưới nhé. Một vài điểm chính về Kukumin IP: Trước khi được triển khai rộng rãi tại Việt Nam, hai thành phần tạo nên sản phẩm Kukumin IP (Curcumin Phytosome và ImmunePath IP) đã được nghiên cứu lâm sàng tại các trung tâm nghiên cứu Dược phẩm Indena (Ý) và Đại học Y Hà Nội (Việt Nam). Một thành phần nguyên liệu của Kukumin IP là thành tựu khoa học đã được cấp 3 bằng sáng chế toàn cầu. Nhờ phát mình này giúp hoạt chất curcumin có trong Kukumin IP tăng hiệu quả lên hơn 30 lần so với các dạng khác. Tháng 2 năm 2016, curcum

Mình viết lại về MỦN RĂNG.

Tại sao mình viết lại : Vì một trong các nguyên nhân đó có thiếu canxi và K2( phục hồi tổn thương răng ). Tất nhiên chỉ kê khi bé kèm theo dấu hiệu thiếu canxi- Còi xương                                                                                   (sưu tầm bài của Bác sỹ Tô Quang Huy, fb Tô Quang Huy) HIỆN TƯỢNG Ố VÀNG- MỦN RĂNG - SÂU RĂNG Ở RĂNG SỮA- NGUYÊN NHÂN- CÁCH KHẮC PHỤC.  " Cái răng cái tóc là góc con người" điều đó không những đúng với người lớn mà còn đúng với trẻ em. Việc răng bé ố vàng hoặc mủn luôn là tâm điểm lo lắng của nhiều người mẹ. Dù biết rằng đó là răng tạm thời , rồi sau được thay bằng răng vĩnh viễn. Nhưng có những hậu quả kéo theo của chúng (ngoài thẩm mỹ) cũng ảnh hưởng đến bé. Răng sữa định hình mọc răng vĩnh viễn. Nếu chúng không đều thường ảnh hưởng trực tiếp đến cơ nhai và kéo theo mất cân đối khuôn mặt. Nếu chúng mủn , vỡ, sâu thì dẫn tới bé đau, bé không chịu ăn thức ăn thô hoặc không chịu nhai, cơ nhai phát triển chậm,